KHIÊN CHÍNH PHƯƠNG
Nguồn: Kim Châm Đại Sư Vương Lạc Đình
Khiên chính phương chủ yếu dùng điều trị liệt dây VII. Phàm 1 bên cơ nhục vùng mặt khó cử động, miệng mắt méo lệch thì gọi là “diện nan”. Lâm sàng có thể phân ra là thuộc ngoại biên và thuộc trung ương.
Nếu đột nhiên phát bệnh, có bệnh sử bị phong thì xuất hiện đau sau tai, bên bị bệnh thì biểu hiện tình cảm tiêu mất, mắt không thế nhắm được lại có dãi chảy ra, miệng lệch về bên lành, rãnh mũi má mờ, không thể huýt sao thổi lửa, dễ chảy nước miếng, vả lại mờ nếp nhăn trán hoặc mất nếp nhăn trán, đó là phong tà tập lạc mà thành. Lâu ngày dẫn đến lạc mạch trở trệ, đàm ứ hỗ kết, bệnh tình lâu ngày càng nặng, thậm chí còn để lại di chứng, cuối cùng thành không chữa được. Trung y gọi là “ thực trúng lạc”, tây y gọi là viêm thần kinh, hay còn gọi là viêm thần kinh ngoại biên. Bản pháp chủ yếu trị niệu viêm thần kinh ngoại bên, tức “ thực trúng lạc”. Điều trị giai đoạn phát triển của bệnh hoặc giai đoạn đầu của hồi phục.
1. TỔ PHƯƠNG:
THỦY CÂU, THỪA TƯƠNG, ĐỊA THƯƠNG, QUYỀN LIÊU, DƯƠNG BẠCH, TỨ BẠCH, ĐẠI NGHINH, HỢP CỐC.
2. CÔNG NĂNG:
SƠ PHONG THÔNG LẠC, HÒA VỆ ĐIỀU VINH, LÝ KHÍ SƠ CAN, THANH NHIỆT KHIÊN CHÍNH.
3. CHỨNG THÍCH ỨNG:
+ giai đoạn sớm của liệt mặt hoặc giai đoạn đầu của hồi phục.
+ giai đoạn giữa của hồi phục, giai đoạn sau( bệnh nhẹ)
4. CHÚ GIẢI:
+ “ Khiên chính phương” thích ứng với diện nan, tức bệnh tê mặt do thần kinh. Diện nan là bệnh rất hay gặp trên lâm sàng, bệnh rất hay phát, lâm sàng biểu hiện nếp nhăn tiêu mất, mắt không nhắm kín, miệng chảy nước miếng, ăn thấy khó, bên bị bệnh khả năng biểu hiện cảm xúc bị tiêu mất. Tại cổ đại thì gọi “ khẩu nhãn oa tà”, “ khẩu oa tích”, “ điếu tuyến phong”. << linh khu- kinh cân>> viết: “ đột nhiên miệng méo, cấp thấy mắt nhắm không kín, nhiệt khiến chân duỗi ra, mắt không mở ra được. Vùng cân ở má có hàn thì lệch mặt, có nhiệt thì cân chùng ra, không thể thu về bình thường được”. << kim quỹ yếu lược>> có nói: “ tặc tà bất tả, hoặc trái hoặc phải, tà khí phản hoãn, chính khí phản cấp, chính khí dẫn tà, miệng lệch không như ý muốn… miệng lệch không như ý, tà tại lạc vậy” .<< chư bệnh nguyên hậu luận- phong khẩu oa hậu>> thuyết: “ phong tà nhập thủ túc dương minh, thủ thái dương kinh, gặp hàn thì cân cấp dẫn lên má, cho nên miệng lệch, ngôn ngữ không được bình thường, mắt không thể nhắm vào đươc ảnh hưởng đến nhìn”. << kim quỹ yếu lược>> diện nan có thể khái quát như sau “ lạc mạch không hư, phong hàn ngoại tập; dương cường thụ tà kinh mạch trở trệ, khí bất hạ đạt, kinh mạch thất dưỡng, cơ nhục túng hoãn bất thu”. Trị liệu đa phần sơ phong thông lạc, hòa vinh vệ, phụ thanh nhiệt sơ can.
+ Giai đoạn cấp tính và giai đoạn ngắn của thời kì hồi phục, bệnh tà nông và dễ xuất, cho nên châm nhẹ, châm nông, dẫn tà ra ngoài. Châm sâu, châm nặng khiến cho chính khí bị tổn thương, tăng thêm cảm giác thống khổ. Châm nông ( thiển thích) tức nội kinh có nói “phù thích”, “ phù thích” châm nghiêng phía ngoài da, dùng trị cơ cấp do hàn vậy”. Đầu tiên dùng kim 28 dài 1 thốn, châm nhẹ mềm là tốt, thiển thích kị châm nặng.
+ Trong phương huyệt thủy câu thuộc đốc mạch có tác dụng khư phong thanh nhiệt, huyệt thừa tương thuộc nhâm mạch có tác dụng khư phong tiêu thũng, hai huyệt cùng dùng điều hòa âm dương, khư phong tán tà. Vị kinh “ nhập răng trên, đi ra hiệp quanh miệng, hạ giao thừa tương, đi xuống dưới sau, đi ra đại nghinh”, nơi bị bệnh là nơi mà kinh mạch đi qua, đại nghinh, tứ bạch, địa thương, giáp xa là huyệt thuộc túc dương minh kinh, cho nên 4 huyệt này có tác dụng khư phong thông lạc, thanh nhiệt trị lệch; phía ngoài mắt thuộc túc thiếu dương đởm kinh, thủ thiếu dương tiểu trường kinh đi qua, thái dương là phần cương lĩnh ở trên mắt cho nên giáp xa, dương bạch có tác dụng sơ đạo thiếu dương, thái dương kinh, khư phong thanh nhiệt; “ diện khẩu hợp cốc thâu”, cho nên hợp cốc huỵêt có tác dụng điều lý khí huyết, khư phong tán nhiệt. Các huyệt trên cộng lại có tác dụng sơ phong thông lạc, điều hòa khí huyết, cho nên khiên chính trị lệch.